Ngày xưa thuở Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni còn tại thế, đa phần các đệ tử xuất gia của Ngài đều chứng A La
Hán, như 1.250 vị tỳ kheo mà kinh thường nhắc đến. Đặc biệt có 10 vị
mệnh danh là Thập Đại Đệ tử, trong 10 vị này mỗi vị đều có sở trường, sở
chứng và đạo hạnh riêng.
Nữ Đại Đệ tử Liên Hoa Sắc là người xuất
sắc trong đoàn Ni chúng, cũng có thần thông đệ nhất, đắc quả A La Hán,
nhưng không nằm trong 10 vị này.
- Tôn giả Ðại Ca Diếp, Ðầu đà đệ nhất
Ngài được Đức Thế Tôn nhiếp hóa trước
hai tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, được Thế Tôn cho là Đầu Đà đệ
nhất. Sinh hoạt theo hạnh đầu đà là một lối sinh hoạt cực kỳ đơn giản
nhằm mục đích tịnh hoá tâm hồn, rất thích hợp với những ai thích tu phạn
hạnh như Ngài Ca Diếp. Sau khi xuất gia tu hạnh Đầu Đà trong 8 ngày
liền, Ngài đắc quả A La Hán. Ngài tinh thông con.đường thiền định, nêu
gương sáng cho chúng Tăng về các hạnh : “ Ít muốn, biết đủ, tinh tân,
viễn ly ”. Ngài thường độc cư trong rừng dù tuổi đã cao.
Đầu-đà (tu khổ hạnh) đệ nhất, được xem
là Sơ tổ Thiền tông Ấn Độ; Ngài là người yêu cầu mở đại hội kết tập kinh
điển lần đầu tiên của Phật giáo.
- Tôn giả A Nan Ðà, Ða văn đệ nhất
Đa văn đệ nhất, người “nghe và nhớ nhiều
nhất”, được xem là Nhị tổ Thiền tông Ấn Độ. A-nan-đà hay được trình bày
trong tranh tượng đứng bên cạnh Phật cùng với Ma-ha-ca-diếp; tuy là Đa
văn đệ nhất nhưng sau khi Đức Phật Niết-bàn ông mới chứng quả A-la-hán
rạng sáng ngày kết tập kinh điển đầu tiên.
Ngài là em họ Đức Phật, xuất gia khi
Phật về thăm hoàng cung, Ngài là vị tỳ kheo đệ nhất về 5 phương diện :
Đa văn, cảnh giác, sức khỏe đi bộ, lòng kiên trì và hầu hạ chu đáo. Được
thánh chúng đề nghị làm thị giả Đức Phật khi Đức Phật được 56 tuổi.
- Tôn giả Xá Lợi Phất, Trí huệ đệ nhất
Trí huệ đệ nhất, đệ tử quan trọng nhất
của Phật trong các kinh Tiểu thừa (sa. hīnayāna); trước khi xuất gia,
ông là một luận sư nổi tiếng trong giáo đoàn Bà-la-môn.
Ngài được xem là trưởng tử của đức Phật,
là chấp pháp tướng quân, thường giảng dạy đồ chúng thay cho đức Phật và
hướng dẫn cho nhiều vị đắc quả A La Hán. Ngài luôn luôn tỏ ra khiêm
tốn, tận tụy, nhiệt tình, được chư Tăng thán phục và được Đức Phật khen
là Trí tuệ bậc nhất. Ngài đắc quả A La Hán 4 tuần sau khi xin gia nhập
giáo đoàn.
- Tôn giả Tu Bồ Ðề, Giải không đệ nhất
Tu Bồ Đề là vị đệ tử Giải Không Đệ Nhất (am hiểu tính không) của Phật Thích Ca.
Theo truyền thuyết của kinh sách Đại
thừa, lúc Ngài mới sanh, trong gia đình Ngài toàn hiện ra những triệu
chứng “ không ”. Các đồ vật trong nhà, từ kho lẫm, lu vãi… mọi vật biến
đâu mất cả, chỉ thuần tịnh một mùi hương chiên đàn và hào quang sáng soi
chấn động cả ba cõi, không thấy đâu là tường vách giới hạn. Hỏi về ý
nghĩa điềm lạ này thì được thầy tướng bảo rằng đó là điều cực lành. Rồi
nhân vì điềm “ không ” ấy, nên cha mẹ Ngài mới đặt tên cho Ngài là Tu Bồ
Đề, nghĩa là Không Sanh. Lại cũng có nghĩa là Thiện Cát (tốt lành) hay
Thiện Hiện (hiện điềm tốt).
- Tôn giả Phú Lâu Na, Thuyết pháp đệ nhất
Tôn giả Phú Lâu Na vốn được gọi là
“Phú-lâu-na Di-đa-la-ni-tử”. Phú Lâu Na chỉ là tiếng gọi tắt. Danh hiệu
Ngài dài như thế chính là biểu hiện cho Tôn giả khi thuyết pháp cũng
trường mãn vô cùng. Danh xưng của Ngài được dịch sang tiếng Trung Hoa là
“Mãn Từ Tử”. Đức Phật thường ngợi khen biện tài ngôn luận của Tôn giả
trước đại chúng.
- Tôn giả Mục Kiền Liên, Thần thông đệ nhất
Ngài được Đức Phật khen và đại chúng
công nhận là Thần thông bậc nhất. Ngài đã nhiều lần thi triển thần thông
như phương tiện để giáo hóa cứu độ mọi người. Ngài cùng với Xá Lợi Phất
điều hành và hướng dẫn Tăng chúng, cũng như độ cho nhiều người chứng
đắc Thánh quả. về sau, Ngài bị phái Ni Kiền Tử hãm hại bằng cách lăn đá
làm Ngài bị tử thương. Đức Phật xác nhận Ngài Mục Kiền Liên đã nhập Niết
Bàn ngay tại chỗ thọ nạn, nơi Ngài bỏ thân tứ đại.
- Tôn giả Ca Chiên Diên, Luận nghị đệ nhất
Sở trường của Tôn giả Ca Chiên Diên
chính là luận nghị, chuyên môn biện luận về đạo lý. Quý vị có thắc mắc
về đạo lý gì muốn hỏi Tôn giả, với tài biện luận của mình, Tôn giả có
thể nói thao thao bất tuyệt, khiến cho người nghe say sưa thích thú.
- Tôn giả A Na Luật, Thiên nhãn đệ nhất
Nhân một lần bị Phật quở khi Tôn giả ngủ
gục trong lúc đang nghe pháp, Tôn giả lập thệ không ngủ nghỉ nữa. Vì
dụng công tu tập quá mức, chẳng bao lâu Ton giả bị mù hai mắt. Đức Phật
dạy Tôn giả tu tập “Kim cang chiếu minh tam muội” chẳng bao lâu A Na
Luật chứng được thiên nhãn thông.
- Tôn giả Ưu Ba Ly, Trì giới đệ nhất
Là vị giữ giới đệ nhất, Tôn giả luôn
luôn quan tâm đến các vấn đề pháp chế, quan trọng nhất vẫn là vấn đề giữ
giới theo lời dạy của Đức Phật trước khi nhập Niết bàn.
- Tôn giả La Hầu La, Mật hạnh đệ nhất
Mật hạnh đệ nhất, ông cũng là người con
duy nhất của Thái tử Tất-đạt-đa (Thái tử Tất-đạt-đa sau này chứng quả
thành Đức Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni)
Trong suốt 49 năm giáo hóa, từ
Thành đạo cho đến Niết Bàn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni quy tụ xung quanh
hào quang của Ngài một số đệ tử cả xuất gia lẫn tại gia. Kinh Đại thừa
ghi lại là 1.250 người đắc quả A La Hán, thoát khỏi luân hồi. 10 vị trên
là những được coi là các Đại đệ tử.
Tuy nhiên có một vấn đề đáng được nêu ra là ngày nay người theo Phật, nghiên cứu tìm hiểu lời Phật dạy thật đông đảo, nhưng người tu hành chứng ngộ lại rất hiếm. Phần vì con người không tu chuyên nhất, đâu cũng cầu cũng bái; Phần thì bái Phật để cầu danh cầu lợi, cầu sức khỏe tiền tài, mà ít ai cầu cho tâm an nhiên bình ổn, nhìn lại chính mình, tự tâm hướng thiện; Phần vì lời dạy của Đức Phật bị mai một, bị diễn giải theo hiểu biết của của con người, xa rời những lời do kim khẩu Đức Phật nói ra.Đức Phật từng giảng thời mạt Pháp có loài hoa mang tới điềm lành linh dị khai nở, có Đức Thánh Vương hạ thế độ nhân, người hướng Phật hãy mau đi tìm….
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét