GIỜ LÂM CHUNG ALEXANDER ĐẠI ĐẾ NÓI GÌ?
Thứ Hai, 30 tháng 11, 2020
GIỜ LÂM CHUNG ALEXANDER ĐẠI ĐẾ NÓI GÌ?
Hai câu chuyện minh chứng rõ ràng cho thấy bạn phải luôn sống trọn mọi khoảnh khắc
Hiện tại là hiện tại, tương lai là tương lai, dù tương lai là ngày mai thì có thể nó cũng không bao giờ tới, vì thế, nếu có thể, nhất định phải tận hưởng cuộc sống, phải làm những gì nên làm ngay hôm nay, ngay lúc này.
Câu chuyện thứ nhất: Alexander Đại Đế và lời tiên tri của triết gia
Khi Alexander Đại đế (356 – 323 TCN) – một vị vua vĩ đại của Hy Lạp cổ đại đang trên đường tới chinh phục Ấn Độ, ngài đã quyết định phải gặp một triết gia Hy Lạp kỳ lạ tên là Diogenes (404 – 323 TCN). Vì đã nghe nhiều câu chuyện về Diogenes nên Alexander rất quan tâm đến ông ta. Nghe nói ông ta sống bên cạnh một con sông nên Alexander đã tìm đến đây.
Hôm đó là một buổi sáng mùa đông. Từng cơn gió lạnh buốt thổi hun hút bên bờ sông, thế nhưng, Diogenes lại cởi trần, nằm trên một bãi cát để tắm nắng.
Là một đấng quân vương, nhưng khi đứng trước Diogenes, vị vua của Hy Lạp vẫn tỏ ra rất khiêm nhường: “Thưa ông tôi muốn làm điều gì đó cho ông. Có điều gì tôi có thể làm cho ông không?”
Trước vinh hạnh này, Diogenes vẫn tỏ ra bình tĩnh và đáp lại một câu khiến những người có mặt đều sửng sốt: “Xin ngài đứng tránh sang một bên vì ngài đang che mất ánh nắng của tôi. Thế thôi. Tôi không cần gì hơn”.
Ấn tượng trước khí phách tuyệt vời của người đàn ông kỳ lạ, Alexander lại nói tiếp: “Nếu được tái sinh lần nữa, tôi sẽ xin Thượng đế cho tôi trở thành Diogenes chứ không phải là Alexander đại đế.”
Diogenes mỉm cười và bảo: “Cái đó thì ngài cần gì xin, vì hiện giờ có ai cấm ngài làm đâu? Ngài có thể trở thành Diogenes mà. Ngài đang định đi đâu thế? Trong nhiều tháng nay, tôi đã thấy các đoàn quân di chuyển không ngừng. Các ngài định đi đâu và làm gì?”
Alexander nói mình đang chuẩn bị tới Ấn Độ để chinh phục cả thế giới.
“Vậy sau đó ngài sẽ làm gì?”, Diogenes hỏi.
“Sau đó tôi sẽ nghỉ ngơi”, Alexander trả lời.
Diogenes cười, đáp lại: “Ngài điên rồi, vì giờ tôi đang nghỉ ngơi, và tôi chưa từng chinh phục cả thế giới. Tôi thấy điều đó là không cần thiết. Nếu đến cuối cùng ngài chỉ muốn nghỉ ngơi, thư giãn thì sao không làm nó ngay bây giờ?
Ai bảo ngài rằng trước khi nghỉ ngơi thì ngài phải đi chinh phục thế giới? Tôi nói ngài nghe, nếu bây giờ ngài không nghỉ ngơi thì sẽ không bao giờ nghỉ ngơi được nữa, vì khi chinh phục xong chỗ này, ngài sẽ lại tiến đến mảnh đất khác. Ngài sẽ chết giữa cuộc hành trình của mình”.
Alexander đáp lại: “Tôi sẽ luôn ghi nhớ điều đó, dù hiện giờ tôi vẫn chưa thể làm được nó. Nhưng cảm ơn lời khuyên của ông”.
Thế rồi, Alexander tiếp tục con đường chinh chiến, và chết khi từ Ấn Độ trở về. Vào trước giờ phút lâm chung, ông đã nhớ đến Diogenes, trong đầu ông chỉ văng vẳng những lời nói của vị triết gia này, cả cuộc đời ông đã không được nghỉ ngơi, còn Diogenes thì đã được nghỉ ngơi suốt cả cuộc đời.
Lời bàn:
Nhiều khi chúng ta cứ luôn theo đuổi những mục tiêu không ngớt trong cuộc sống, không dám nghỉ ngơi, không dám cho mình một phút giây tĩnh lặng để nhìn lại bản thân, để rồi có ngày có hối tiếc cũng không kịp.
Câu chuyện thứ 2: Vua Yudhisthira và người ăn xin
Ngày xưa, có một người ăn xin đến gặp vị vua của vùng đất Indraprastha (thuộc Ấn Độ cổ đại) tên là Yudhisthira, cầu xin được giúp đỡ. Khi đó, vua Yudhisthira đang bận nên đã bảo người ăn xin rằng “Ngày mai hãy đến”.
Nghe thấy vậy, người ăn xin đành lầm lũi bỏ đi. Ngay sau đó, Bheema, em trai của vua Yudhisthira đã cầm một chiếc trống lớn và đánh trống một cách điên cuồng. Với mỗi một lần gõ, anh lại bước một bước về phía trước.
Vua Yudhisthira chứng kiến cảnh này, lấy làm ngạc nhiên lắm, nên đã đi tới hỏi Bheema nguyên do. Bheema đáp lại: “Anh trai, em vừa phát hiện ra là anh là một nhà tiên tri, nên em muốn nói cho cả vương quốc biết về chuyện này”.
Yudhisthira vô cùng sửng sốt trước câu trả lời, nhìn cậu em trai một cách hồ nghi và hỏi lại: “Ý em là gì?”
Bheema mỉm cười, đáp lời: “Chẳng phải anh vừa bảo người ăn xin ngày mai hãy quay lại hay sao? Làm sao anh biết ngày mai anh ta vẫn còn sống? Làm sao anh biết ngày mai anh vẫn ở đây?
Mà cho dù cả 2 người vẫn còn sống đi, làm sao anh dám chắc được rằng anh vẫn còn ở vị thế có thể ban phát thứ gì đó cho anh ta? Anh làm sao biết anh ta có còn cần thứ gì đó của anh hay không? Làm sao anh biết 2 người chắc chắn có thể gặp nhau vào ngày mai?
Đó là lý do em nói anh là nhà tiên tri, và em muốn mọi người ở vương quốc này đều biết điều đó”.
Đến lúc này, Yudhisthira mới vỡ lẽ ngụ ý đằng sau lời nói của em trai, vội vàng gọi người ăn xin, lúc này vẫn chưa đi xa quay lại, và cho anh ta sự giúp đỡ mà anh ta cần.
Lời bàn:
Dù là bất cứ ai, chúng ta cũng không thể nào chắc chắn được chuyện gì sẽ xảy ra trong tương lai. Chính vì thế, nếu có thể, hãy sống trọn từng khoảnh khắc, chuyện gì làm được thì phải làm ngay, người nào cần giúp, phải giúp ngay, để không còn gì hối tiếc, phải ân hận.
Thứ Bảy, 28 tháng 11, 2020
Thánh vương Đế Nghiêu hợp Thiên Đạo, dùng đức giáo hóa dân chúng vạn thế tôn sùng
Vua Nghiêu không truyền ngôi cho con trai mà lại truyền cho một người dân thường áo vải là Thuấn. Chuyện ấy đã trở thành một giai thoại đẹp trong lịch sử nhân loại, cũng là hình mẫu của thời đại dùng đạo đức để quản lý quốc gia, "vô vi nhi trị", không cần các biện pháp hình pháp, chính lệnh mà đạt được thiên hạ thái bình thịnh trị...
Hiên viên Hoàng Đế, Đế Chuyên Húc, Đế Khốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn, lịch sử gọi là Ngũ Đế. Trong lịch sử thời thống trị của Tam Hoàng Ngũ Đế, thời kỳ vua Nghiêu cai trị có thể nói là thời kỳ tốt nhất. Bất kể là qua lời nhận xét của Khổng Tử, hay nội dung ghi chép trong các thư tịch lịch sử, đều hết lời ca tụng và đánh giá rất cao tài đức cai trị của vua Nghiêu. Sử ký có viết rằng: "Vua Nghiêu nhân đức như Trời, trí tuệ như Thần, ở gần thấy ông như mặt trời, đứng từ xa ngắm thấy ông như mây, giàu mà không kiêu, sang mà không thảnh thơi".
Gia huấn người xưa: Sáng tỏ ngộ, sáng tỏ Đạo, sáng tỏ lý
Xã hội truyền thống giữ được nền đạo đức cao thượng suốt hàng nghìn năm thì một phần lớn là ở vai trò giáo dục gia đình, trong đó những bản gia huấn, gia quy khởi tác dụng then chốt. Những gia tộc hàng trăm hàng nghìn năm không suy bại đều nhờ những lời răn dạy trí tuệ của tiền nhân.
Nhan Thị gia huấn (Gia huấn họ Nhan)
"Tích tiền của ngàn vạn không bằng nghề mọn trên thân"
Nguyên văn: Tích tài thiên vạn bất như bạc kỹ tại thân
Nhan Chi Suy kết hợp kinh nghiệm sống, triết học xử thế, học thức tư tưởng của mình viết thành sách Nhan Thị gia huấn để răn dạy cháu con. Cuốn sách gồm 7 quyển, 20 thiên, phạm vi nội dung mỗi thiên đề cập đến khá rộng, nhưng chủ yếu là dùng tư tưởng Nho gia truyền thống giáo dục con em, giảng tu thân, trị gia, xử thế, học hành...
Ví như ông đề xướng học tập, cần phải học hành, học thức, hiểu lý sự. Ông cho rằng học tập cần lấy đọc sách làm chính, và phải chú ý đến tri thức các phương diện như thủ công, nông nghiệp, thương nghiệp... Ông chủ trương "học quý ở có thể thực hành", phản đối nói suông, luận điều cao siêu, không thiết thực. Rất nhiều câu danh ngôn trong sách này đã được lưu truyền rộng rãi, như:
Sống với người thiện như vào phòng hoa lan, lâu dần bản thân mình cũng thơm. Sống với người xấu như vào hàng cá, lâu dần bản thân mình cũng tanh hôi.
Tuổi nhỏ mà học tập thì như ánh sáng mặt trời mới mọc. Tuổi già mới học tập thì như cầm đuốc đi đêm, còn hơn người đến khi nhắm mắt vẫn không có tri thức"
Giữa cha con không được suồng sã. Tình cốt nhục không thể sơ sài. Sơ sài thì không giữ được nhân từ và hiếu thuận. Suồng sã thì sinh ra khinh mạn"
Sinh mệnh không thể không quý tiếc, cũng không thể quá ham sống sợ chết.
Người các thời đại đều rất tôn sùng Nhan Thị gia huấn, thậm chí còn cho rằng "Gia huấn cổ kim, lấy bản này làm ông tổ". Bản gia huấn này được tái bản liên tục, trải qua hơn ngàn năm mà không mất.
Viên Thị thế phạm (Quy phạm để đời họ Phạm)
"Tiểu nhân làm việc xấu không nhất thiết phải khuyên can"
Nguyên văn: Tiểu nhân vi ác bất tất gián
Viên Thái là người tài đức song toàn, người đương thời ca ngợi ông là "Đức đủ hạnh đầy, học rộng văn hay". Khi làm huyện lệnh Nhạc Thanh, ông cảm khái cách làm của Tử Tư năm xưa, truyền bá Đạo Trung dung trong bách tính, bèn viết sách Viên Thị thế phạm để thực hiện giáo dục luân lý.
Viên Thị thế phạm đi từ nông cạn đến thâm sâu, nói uyển chuyển nhẹ nhàng như nói chuyện thường ngày, do đó còn được gọi là "Tục huấn". Sách có rất nhiều câu đặc sắc, như:
Tiểu nhân thì nên tôn trọng và tránh xa.
Trách mình nhiều, trách người ít.
Tiểu nhân làm việc xấu không nhất thiết phải khuyên can.
Gia nghiệp thành nhờ lo lắng, e sợ, bại vì lười biếng, khinh suất.
Người cùng hội không thiện thì phải biết tự cảnh tỉnh mình.
Viên Thị thế phạm đã rất nhanh chóng trở thành sách giáo khoa giáo dục trẻ em trong các trường tư thục. Sỹ đại phu các thời đại đều rất tôn sùng bộ sách này, coi là báu vật.
"Mệnh tử Thiên" của Tư Mã Đàm
Tư Mã Đàm học vấn uyên bác. Hán Vũ Đế đã "chiểu theo tài năng đặt công việc", cho Tư Mã Đàm, phong cho ông chức quan mới, làm Thái sử lệnh thường được gọi là Thái sử công, quản các việc như thiên văn, lịch pháp, và còn ghi chép, thu thập và bảo tồn các văn hiến, điển tịch.
Vì vậy Tư Mã Đàm vô cùng cảm ân đội đức đối với Vũ Đế, đồng thời dốc sức làm hết chức trách. Do tinh thần trách nhiệm cao, Tư Mã Đàm trước khi lâm chung đã nắm tay con là Tư Mã Khiên, vừa khóc vừa căn dặn. Đó chính là Mệnh tử Thiên của Tư Mã Đàm. Tư Mã Đàm hy vọng sau khi mình chết thì Tư Mã Khiên có thể kế thừa được sự nghiệp của ông, càng không được quên chép, viết sử sách, cho rằng đó là "đại hiếu": "Hơn nữa, hiếu bắt đầu từ phụng sự cha mẹ, tiếp đến phụ sự quốc quân, cuối cùng là lập thân. Hiển dương danh tiếng các đời sau để vinh hiển mẹ cha, đó là đại hiếu vậy".
Hơn 400 năm sau khi Khổng Tử qua đời, chư hầu thôn tính lẫn nhau, chép sử bị đoạn tuyệt. Hiện nay thiên hạ nhất thống, những sự tích vua sáng tôi hiền, trung thần nghĩa sỹ rất nhiều. Làm Thái sử mà không thể làm hết trách nhiệm viết về những sự tích đó thì nội tâm ông vô cùng lo lắng không yên. Do đó ông đã cấp thiết hy vọng Tư Mã Thiên có thể hoàn thành đại nghiệp mà ông còn dang dở.
Tư Mã Thiên đã không phụ mệnh huấn của cha, cuối cùng đã viết được bộ Sử ký được ca ngợi là "Tuyệt xướng của sử gia, bộ "Ly Tao" không vần", được sử sách lưu danh muôn thuở.
Có người nói, không có Mệnh tử Thiên của Tư Mã Đàm thì không có Sử ký của Tư Mã Thiên. Lời nói này rất chính xác, đáng tin cậy.
Giới tử thư và Giới ngoại sanh thư của Gia Cát Lượng
"Không đạm bạc không lấy gì để sáng tỏ chí hướng"
Nguyên văn: Phi đạm bạc vô dĩ minh chí
Gia Cát Lượng 46 tuổi mới có con trai là Gia Cát Chiêm, ông rất thích cậu con trai này, hy vọng con trai sau này trở thành rường cột quốc gia. Gia Cát Lượng có hai người chị, chị hai sinh được con trai tên là Bàng Hoán, được Gia Cát Lượng rất yêu quý. Gia Cát Lượng quanh năm chinh chiến, chính sự cuốn chặt thân, nhưng ông vẫn không quên răn dạy con cháu.
Hai bức thư ông viết gửi cho Gia Cát Chiêm và Bàng Hoán được gọi là Giới tử thư (Thư răn dạy con) và Giới ngoại sanh thư (Thư răn dạy cháu).
Thư Gia Cát Lượng gửi con trai (Giới tử thư) như sau:
“Nết người quân tử, tĩnh để tu thân, kiệm dùng dưỡng đức.
Không đạm bạc chí chẳng sáng soi, không tĩnh tâm tiến xa chẳng nổi.
Học cần tâm tĩnh, tài cần phải học.
Không học, tài chẳng mở mang, không chí, chẳng thành nghiệp học.
Biếng nhác ắt chẳng thể tinh thông, nóng nảy sao tu thành tâm tính.
Tháng ngày vùn vụt, ý chí qua đi, thân đã già nua, chưa hiểu sự đời.
Nhà rách sầu bi, hối thì đã muộn”.
Thư Gia Cát Lượng gửi cháu (Giới ngoại sanh thư) như sau:
"Chí hướng cần phải cao xa, ngưỡng mộ tiên hiền, đoạn tuyệt tình dục, trừ bỏ nghi hoặc.
Khiến chí hướng nâng cao, tiếp cận bậc tiên hiền, lúc nào cũng cảm thấy khẩn thiết.
Cần nhẫn nại, biết co biết duỗi, gạt bỏ tạp niệm, học hỏi rộng rãi, trừ bỏ oán hận, sỉ nhục, tuy tài đức không được hiển đạt cũng đâu tổn hại mỹ đức bản thân, lo gì sự nghiệp không thành.
Nếu chí không kiên nghị, ý chí không khảng khái thì chỉ luân lạc chốn tầm thường, bị tình trói buộc, mãi mãi không thoát khỏi tầm thường, không tránh khỏi rớt chốn hạ lưu".
Từ hai bức thư có thể thấy Gia Cát Lượng yêu cầu với con trai và cháu trai là như nhau. Giới tử thư và Giới ngoại sanh thư là những thiên nổi tiếng trong gia huấn cổ đại, đã luận thuật tu thân dưỡng tính, học tập nên người, khiến người đọc cảnh tỉnh sâu sắc.
Gia huấn của Bao Chửng
"Kẻ tham ô không được quay về gia tộc"
Nguyên văn: Phạm tang lạm giả, bất đắc phóng quy bản gia.
Bao Chửng nổi tiếng công chính liêm khiết, cương trực, chấp pháp như sơn. Vào những năm cuối đời, ông đã đặt ra một điều gia huấn cho con cháu đời sau rằng: "Con cháu đời sau làm quan, kẻ tham ô không được quay về gia tộc. Sau khi chết cũng không được chôn trong khu mộ gia tộc. Không theo chí của ta thì không phải là con cháu của ta".
Bên dưới còn viết mấy chữ: "Mong Bao Củng (con trai Bao Chửng) khắc vào đá, dựng ở tường đông nhà, để răn dạy hậu thế".
Bản gia huấn này của Bao Chửng là lời răn dạy của ông đối với con cháu khi ông còn sống, đồng thời bảo con trai là Bao Củng khắc vào tấm đá, dựng ở tường đông ngôi nhà để cho con cháu các đời sau làm theo. Chỉ 37 chữ này nhưng đã ngưng kết phẩm tiết Bao Công, một thân chính khí, hai tay gió lành, tuy đã ngàn năm mà vẫn đủ làm mẫu mực cho người đời sau. Gia huấn của Bao Chửng là lời răn dạy của ông đối với hậu thế, cũng là miêu tả phẩm cách một đời của ông.
"Hối học thuyết" của Âu Dương Tu
"Ngọc không mài không thành đồ quý"
Nguyên văn: Ngọc bất trác bất thành khí.
Khi Âu Dương Tu 4 tuổi thì phụ thân qua đời, mẫu thân giáo dục ông rất nghiêm khắc. Để tiết kiệm chi tiêu, mẫu thân dùng cây sậy, hòn than làm bút viết lên đất hoặc bãi cát để dạy chữ cho Âu Dương Tu. Trong bản gia huấn của mình, Âu Dương Tu hy vọng con trai có thể nuôi dưỡng được thói quen đọc sách, và học được đạo lý làm người.
Thế là khi dạy bảo con trai thứ hai là Âu Dương Dịch cần nỗ lực học tập, ông đã viết Hối học thuyết (Khuyên con học) rằng:
"Ngọc không mài không thành đồ quý. Người không học không biết đạo lý. Nhưng ngọc là vật, có đức bất biến, tuy không mài thành đồ quý thì cũng không tổn hại gì ngọc. Tính con người thay đổi theo vật, nếu không học thì bỏ quân tử mà làm tiểu nhân, có thể không nghĩ sao?"
Âu Dương Tu dùng ngọc để ví với người, dạy bảo có phương pháp, có thể coi là lời vàng tiếng ngọc.
Chu Tử gia huấn
Chu Bá Lư (1627-1698), là người huyện Côn Sơn, Giang Tô sống vào cuối thời Minh đầu thời nhà Thanh. Ông là nhà lý học, nhà giáo dục nổi tiếng. Phụ thân Chu Bá Lư đã tuẫn nạn khi trấn thủ thành Côn Sơn chống quân Thanh. Chu Bá Lư phụng dưỡng mẹ già, nuôi dưỡng dạy bảo các em, tha hương lưu lạc, cực kỳ gian khổ.
Ông trước sau không làm quan, cả đời dạy học ở quê. Ông chuyên tâm học tập, lấy lý học của Trình - Chu làm gốc, đề xướng “tri - hành” cùng tiến, bản thân thực hiện thực tiễn. Ông và Cố Viêm Vũ kiên quyết từ chối không tham dự khoa thi "Bác sỹ hồng Nho" của triều đình Khang Hy. Ông cùng Từ Phương, Dương Vô Cữu được mọi người tôn xưng là "Ngô trung tam cao sỹ" (Ba cao nhân đất Ngô)
Toàn văn Chu Tử gia huấn chỉ hơn 500 chữ, nội dung cô đọng, rành mạch, sâu sắc, ngôn từ thông tục dễ hiểu, vần điệu. Từ khi ra đời đến nay, bản gia huấn này đã được lan truyền rộng khắp, trở thành bản gia huấn kinh điển giáo dục con, quản lý gia đình được người người biết đến và yêu thích. Trong đó có những câu cảnh tỉnh như:
- Bát cơm bát cháo, phải biết có được không dễ.
- Sợi tơ mảnh vải, nên nhớ vật lực gian nan.
- Nên chưa mưa mà thu lụa, chớ khát nước giếng mới đào.
Những lời dạy trong bản gia huấn này đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị giáo dục.
Bản "Chu Tử gia huấn" chỉ có 506 chữ nhưng lại là tập đại thành của phương pháp đối nhân xử thế của Nho gia.
Đệ tử quy
Lý Dục Tú (1647-1729) tự Tử Tiềm, hiệu Thái Tam, là học giả, nhà giáo dục nổi tiếng sống vào thời kỳ đầu nhà Thanh. Sau khi thi khoa cử không đỗ, Lý Dục Tú dốc sức học tập. Ông căn cứ vào yêu cầu truyền thống đối với giáo dục trẻ em, kết hợp với thực tiễn dạy học của bản thân, đã viết ra sách Huấn mông văn (bài văn dạy trẻ em), sau được Giả Tồn Nhân chỉnh sửa, đổi tên thành Đệ tử quy.
Đệ tử quy được lưu truyền rộng rãi thời kỳ cuối nhà Thanh, dường như có ảnh hưởng tương đồng với Tam tự kinh, Bách gia tính và Thiên tự văn. Đệ tử quy xem có vẻ như một cuốn sách nhỏ không nổi bật, nhưng thực tế lại tổng hợp đại trí huệ của các bậc chí Thánh tiên hiền.